Các nhà khoa học xã hội nói gì về “Kinh nghiệm sống”

Kinh nghiệm sống (lived experience) là một phạm trù kiến ​​thức được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu khoa học xã hội và cả phạm vi công cộng. Thay vì tìm cách tạo ra một định nghĩa khác, thuật ngữ này có thể được các nhà xã hội học sử dụng trong thực tế và tiết lộ về những kinh nghiệm sống nói chung.

Một vài năm trước, thuật ngữ kinh nghiệm sống bắt đầu xuất hiện thường xuyên trong xã hội học. Kinh nghiệm sống ám chỉ mối liên hệ trực tiếp, thực tế với một số yếu tố nào đó của đời sống xã hội, nhưng việc sử dụng nó trong các ngữ cảnh khác dường như cho thấy nó mang ý nghĩa rộng hơn thế. Đôi khi, kinh nghiệm sống đóng vai trò như một thông tin đặc biệt để giải thích các câu hỏi liên quan đến lý thuyết và phương pháp vẫn thường nhận được sự đồng tình.

Phức tạp hơn, những lời kêu gọi tìm kiếm thêm kiến ​​thức từ kinh nghiệm sống, cũng như chỉ trích về cách kinh nghiệm sống bị bỏ qua, đánh giá thấp hay bị gạt ra ngoài lề trong nghiên cứu học thuật trở nên phổ biến. Tất cả những điều này diễn ra trong bối cảnh mà thuật ngữ kinh nghiệm sống đang xuất hiện ngày một nhiều trong các tài liệu học thuật và tài liệu nói chung sử dụng tiếng Anh.

Hình 1. Tỷ lệ xuất hiện của thuật ngữ “kinh nghiệm sống” từ năm 1960 đến 2022

Có thể nói rằng, kinh nghiệm sống được triển khai như một ý tưởng bí ẩn đặt ra một loạt các vấn đề khó khăn cho xã hội học, nhưng lại chứa đựng rất nhiều giả định ngầm. Một mặt, ai là người có hiểu biết sâu sắc hơn về các hiện tượng xã hội so với những người đã trực tiếp trải nghiệm chúng? Mặt khác, vai trò của các nhà xã hội học liên quan đến thực tế hiện tượng mà chúng ta nghiên cứu là gì; như Weber đã hỏi, liệu người ta có cần phải là Caeser để hiểu Caeser không? Và rốt cuộc, kinh nghiệm sống có nghĩa là gì?

Trong bối cảnh này, nhà xã hội học Paul Jones đã thực hiện nghiên cứu Engaging With Lived Experience: Towards a Sociological Biography of a Sociological Category, được đăng trên tạp chí Sociological Research Online, để khám phá cách các nhà xã hội học sử dụng kinh nghiệm sống trong công việc của họ. Tác giả không quan tâm đến việc phát triển định nghĩa của riêng mình về kinh nghiệm sống, không đưa ra phán xét về những học giả đã sử dụng nó, chỉ trích các phương pháp tham gia, hay hạ thấp tầm quan trọng của những kinh nghiệm thực tế và tiếng nói của những người tham gia. Nói một cách đơn giản, nhà nghiên cứu muốn hiểu rõ hơn những gì các nhà xã hội học hàn lâm muốn nói khi họ viết về kinh nghiệm sống.  

Tác giả đã phân tích các bài báo được xuất bản từ tháng 6 năm 2017 đến tháng 6 năm 2023 trên một trong bốn tạp chí của Hiệp hội Xã hội học Anh (British Sociological Association) –  Sociology, Work, Employment and Society; Cultural Sociology; Sociological Research Online – có đề cập đến kinh nghiệm sống. Có 36 nghiên cứu thỏa mãn tiêu chí này. Thông qua việc phân tích các nghiên cứu, tác giả đi đến bốn kết luận.

Thuật ngữ “kinh nghiệm sống” được sử dụng mà không có định nghĩa rõ ràng

Không một bài báo nào trong số 36 bài báo thực sự định nghĩa về kinh nghiệm sống. Điều này không đồng nghĩa với việc cần chỉ trích tác giả của các nghiên cứu này, hay kêu gọi đưa ra những định nghĩa chi tiết hơn về “kinh nghiệm sống”. Trái lại, việc không có định nghĩa mở ra một số hướng nghiên cứu thú vị. Kinh nghiệm sống là một cách diễn đạt ngắn gọn để nêu bật kiến ​​thức xuất hiện từ trải nghiệm trực tiếp, cũng như những khó khăn vì gần như không thể tìm được một công thức chính xác để nắm bắt bản chất lộn xộn, rối rắm đặc trưng cho cuộc sống xã hội của những người tham gia.

Tóm lại, các vị trí xã hội phức tạp được thảo luận đòi hỏi phải sử dụng một số cách thức ủy nhiệm. “Kinh nghiệm sống” thừa nhận sự vướng mắc vô cùng chi tiết này giữa các hoạt động và cấu trúc trong khi “gạt bỏ” nhu cầu bóc tách tất cả các sắc thái liên quan. Tuy nhiên, theo như quan sát, chúng ta có thể có xu hướng cho rằng người khác đã hiểu ngôn ngữ và ý tưởng của mình là một điều hiển nhiên; về mặt nghiên cứu học thuật, các giả định có thể được lén đưa vào phân tích của nhà nghiên cứu. Điều này đúng với các mô tả phê phán và có sự tham gia trong các nghiên cứu và phân tích, chẳng hạn như được hỗ trợ bởi “kinh nghiệm sống”, cũng như đối với các thuật ngữ thu hẹp về mặt ý thức hệ mà chúng ta thấy được chuẩn hóa, đánh giá cao và chia sẻ trong các không gian loại trừ hơn. Các quy tắc kiến ​​thức đặc trưng cho cả diễn ngôn bao gồm và loại trừ.

Các bài báo được đánh giá đều mang tính chất định tính

Có rất nhiều phương pháp được sử dụng để nghiên cứu kinh nghiệm của người khác trong xã hội học. Đối với những nghiên cứu được đánh giá, các phương pháp định tính được áp dụng phổ biến, đặc biệt là phương pháp phỏng vấn, được sử dụng trong 31 bài báo dưới các hình thức khác nhau. Có lẽ không quá ngạc nhiên khi cho rằng có thể tiếp cận kinh nghiệm sống bằng phương pháp liên quan tới “nói chuyện”. Bởi lẽ, một trong những mục đích của nghiên cứu kinh nghiệm sống là sự tham gia, xuất phát từ việc tiếng nói của người tham gia thường bị bỏ qua hoặc bị đánh giá thấp. Sự phụ thuộc vào nghiên cứu định tính dưới hình thức phỏng vấn cũng có thể là một đặc điểm của các tạp chí mà tôi chọn để phân tích, tất cả đều có bản chất định tính áp đảo. Đặc điểm của các tạp chí được sử dụng để phân tích cũng có thể ảnh hưởng đến kết quả này, bởi đa số chúng dựa trên các nghiên cứu định tính dưới dạng phỏng vấn. Tuy nhiên, từ mẫu nghiên cứu, vẫn thấy được một mối liên hệ chặt chẽ giữa phỏng vấn và đóng góp của xã hội học về kinh nghiệm sống.

Việc có kinh nghiệm sống giúp tăng tính thuyết phục cho những phát biểu của người tham gia.

Vai trò của thực chứng cũng như mối liên hệ giữa tri ​​thức học thuật và các loại tri ​​thức khác không phải là vấn đề đơn giản đối với xã hội học. Các cuộc phỏng vấn không chỉ thống trị mẫu, mà lời nói của khách thể còn được coi là đáng tin cậy. Tuy nhiên, việc tạo ra bối cảnh xung quanh kinh nghiệm sống là một phần quan trọng của một công trình xã hội, bằng cách nhà nghiên cứu đặt lời nói của khách thể trong các điều kiện cấu trúc của hành động (structural conditions of action). Theo nghĩa này, việc sử dụng thuật ngữ kinh nghiệm sống, khác với cuộc sống thực tế mà mọi người đang sống, đã mang lại cho nghiên cứu sự gần gũi với thế giới được xem xét. Bằng chứng là phần kết luận của hầu hết các bài báo (31 trong số 36 bài báo) đều chứa lời nói trực tiếp của những người tham gia để tóm tắt lập luận của bài báo.  

4. Liệu “xã hội học về trải nghiệm sống” có phải là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập và có tính thống nhất không?

Một mặt, sự khác biệt về chủ đề của các bài báo được xem xét dường như tạo ra một lĩnh vực có sự phân hóa cao, với kinh nghiệm rất khác nhau có thể làm suy yếu mọi lời khẳng định về tính chặt chẽ. Mặt khác, những điểm chung cơ bản của các cách tiếp cận là ổn định: vị trí ngoài lề của khách thể nghiên cứu, các phương pháp định tính và có sự tham gia, sự đồng thuận ngầm về các quy tắc giữa khách thể và nhà nghiên cứu (các khách thể có kinh nghiệm sống về cùng một chủ đề không nhất thiết phải đồng ý về các nguyên nhân và thực tế xã hội), các cá nhân không được hiểu là đại diện trực tiếp của các nhóm. Để trả lời cho câu hỏi ban đầu về định nghĩa, theo hàm ý, tất cả các bài báo được lấy mẫu đều sử dụng “kinh nghiệm sống” như một từ trái nghĩa với cấu trúc xã hội và như một từ đồng nghĩa với cuộc sống riêng tư, cảm xúc và nhận thức.  

Vậy, kinh nghiệm sống là gì?

Sử dụng kinh nghiệm sống trong khoa học xã hội có tác dụng với việc phân tích, nhóm một số yếu tố lại với nhau, làm nổi bật hay làm nền cho một vài yếu tố. Nghiên cứu của Paul Jones cho thấy rằng, mặc dù tránh một định nghĩa dứt khoát duy nhất, kinh nghiệm sống được triển khai nghiên cứu với cả mục đích mô tả và phân tích. Trong vai trò là một cách mô tả các phương pháp tham gia và nêu quan điểm từ các vị trí thiệt thòi, “kinh nghiệm sống” làm nổi bật tri ​​thức ngoài khoa học trong xã hội học và là một đặc điểm chung trong một số khoảng nghiên cứu, trong khi rõ ràng là không có ở những không gian khác. Nghiên cứu đã cho thấy chức năng quan trọng của kinh nghiệm sống như một phạm trù; mà ta phải cẩn thận với việc làm loãng thuật ngữ, đi kèm với việc bình thường hóa nó, và hiểu biết chung sâu sắc hơn về việc việc kinh nghiệm sống có thể tiếp tục đảm bảo tính thuyết phục trong việc làm sáng tỏ đời sống xã hội.

Chi tiết nghiên cứu: Jones, P. (2024). Engaging with lived experience: towards a sociological biography of a sociological category. Sociological Research Online. https://doi.org/10.1177/13607804241254285

--- Bài viết này có hữu ích không? ---

Nhấn sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 0 / 5. Số đánh giá: 0

Chưa có đánh giá.

Có thể bạn quan tâm