Quyền tác giả còn ý nghĩa gì khi bài báo khoa học chỉ là công cụ để kiếm trích dẫn?

Bài viết của Stuart Macdonald lập luận rằng, với việc hạ tầng đo lường dựa trên trích dẫn đã trở thành một tính năng không thể thiếu trong đời sống học thuật, khái niệm “tác giả” trong giới học giả hiện đại đang trở nên đáng ngờ.

Ảnh: Adobe Blog Illustrations via Behance | CC BY–NC–ND 4.0

Vai trò của tác giả trong xuất bản học thuật không hoàn toàn như chúng ta vẫn tưởng. Đã qua rồi cái thời các nhà khoa học chỉ đơn giản là thực hiện nghiên cứu và công bố phát hiện của mình. Giờ đây, các bài báo của họ ít được đánh giá dựa trên nội dung mà chủ yếu được xem như một thước đo hiệu suất học thuật. Trong số các thước đo đó, trích dẫn (citation) là vua.

Nửa thế kỷ nay, tổ chức Clarivate ISI đã tính toán Chỉ số ảnh hưởng của tạp chí (Journal Impact Factor – JIF) dựa trên tần suất các bài báo của một tạp chí được các bài báo khác trích dẫn. Càng nhiều trích dẫn, JIF càng cao, và giá của tạp chí đó cũng càng đắt. JIF có vai trò sống còn đối với vận mệnh của cả giáo dục đại học và ngành xuất bản học thuật. Nhưng điều này có ý nghĩa gì đối với người thực hiện nghiên cứu, tức là tác giả?

Một biên tập viên tạp chí từng chia sẻ:

“Chúng tôi… [từng]… chấp nhận những bài báo mà chúng tôi cảm thấy sẽ đóng góp cho kho tàng tri thức quốc tế. Bây giờ, lý do chúng tôi từ chối một bài báo thường là ‘Tôi không nghĩ bài này sẽ được ai trích dẫn’.”

Quyền tác giả và Trích dẫn

Câu cửa miệng “Công bố hay là chết” (Publish or perish) thực ra đã lỗi thời. Đúng hơn phải là: các nhà khoa học sẽ “chết” nếu không được trích dẫn. Bài báo học thuật ngày nay chủ yếu là một nền tảng để được trích dẫn. Trích dẫn sai (không phù hợp, không liên quan hoặc thậm chí không tồn tại) cũng có giá trị ngang với trích dẫn đúng. Và thực tế là có rất nhiều trích dẫn sai – điều này không có gì đáng ngạc nhiên khi 80% tác giả thừa nhận chưa bao giờ đọc các bài báo mà họ trích dẫn. Khi nhà xuất bản Elsevier đưa ra một ví dụ về cách trích dẫn đúng chuẩn, đã có hơn 500 người trích dẫn chính cái ví dụ hoàn toàn hư cấu đó.

Quan niệm rằng những bài báo hay nhất là những bài được trích dẫn nhiều nhất do Eugene Garfield bịa ra từ 50 năm trước. Nó luôn luôn đáng ngờ. Những bài báo dễ được trích dẫn nhất, và do đó dễ được xuất bản nhất, thường là những bài báo tầm thường, kiểu như khẳng định một sự thật hiển nhiên “nước thì ướt”. Nếu áp dụng các thước đo hiệu suất hiện đại, không trường đại học nào có thể tuyển dụng một người như Peter Higgs (nổi tiếng với hạt Higgs boson).

Trớ trêu thay, bài báo từng được trích dẫn nhiều nhất mọi thời đại lại nói về việc làm sạch ống nghiệm, trong khi bài báo công bố cấu trúc xoắn kép của DNA, có lẽ là khám phá quan trọng nhất của sinh học trong một thế kỷ, lại hiếm khi được trích dẫn trong hơn một thập kỷ đầu.

Thao túng số liệu

Nếu như trước đây việc “lách luật” trích dẫn vẫn còn tuân theo một số quy tắc nhất định, thì giờ đây việc thao túng (không có quy tắc, không có giới hạn) đã trở nên phổ biến. Những người chơi tàn nhẫn nhất thường là những cá nhân và tổ chức có uy tín cần duy trì – các trường đại học danh tiếng, tạp chí uy tín, học giả lỗi lạc, và các nhà xuất bản lớn.

Ví dụ, hành vi “ép buộc trích dẫn” (biên tập viên yêu cầu tác giả phải trích dẫn các bài báo của chính tạp chí đó như một điều kiện để được xuất bản) đặc biệt phổ biến ở các tạp chí hàng đầu. Hơn 90% tác giả tuân thủ yêu cầu này. Nhiều tạp chí mong muốn khoảng 60% trích dẫn trong một bài nộp là từ các bài của chính họ. Tình trạng tự trích dẫn (tác giả trích dẫn chính các bài của mình) cũng tràn lan: hiệu trưởng mới của trường đại học lâu đời nhất Tây Ban Nha hiếm khi trích dẫn ai khác ngoài chính mình.

Các nhà xuất bản quyền lực nhất thường xuyên họp để thảo luận về việc điều chỉnh cách phân bổ JIF. Một vài thay đổi nhỏ có thể tạo ra sự khác biệt khổng lồ: việc phân loại lại “tóm tắt hội nghị” thành “bài báo học thuật” đã giúp một tạp chí Sinh học tăng JIF từ 0.24 lên 18.3 chỉ trong một năm. “Phần thưởng COVID-19” đã giúp JIF của tạp chí The Lancet tăng từ 79.3 năm 2021 lên 202.7 vào năm sau, một bước nhảy vọt về chất lượng được đo lường lên tới 255%. Khi phần thưởng từ việc thao túng các chỉ số lớn đến vậy, ai còn cần các tác giả nữa?

Ike Antkare là một trong những tác giả có năng suất cao nhất thế giới. Antkare, một “học trò” của Cyrile Labbé, chưa bao giờ tồn tại. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục xuất bản. Nhiều người trong danh sách các tác giả năng suất cao của Scopus đã bắt đầu xuất bản hàng chục năm trước khi họ được sinh ra. Một tác giả của 12 bài báo khoa học với 144 trích dẫn và chỉ số h-index là 12 chính là chú mèo Larry (thú cưng của Phủ Thủ tướng Anh).

Danh sách tác giả có thể trông giống như một bản CV thu nhỏ, nhồi nhét tên các cơ quan, tổ chức để gây ấn tượng với biên tập viên. Các cơ quan liên kết của đồng tác giả thường là bịa đặt, và nhiều đồng tác giả cũng là hư cấu. Trung Quốc đã tự thao túng để trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về các nghiên cứu được trích dẫn nhiều, và Clarivate ISI đã phải loại bỏ 1.000 tác giả khỏi danh sách 6.849 tác giả được trích dẫn nhiều hàng năm vì lý do “gian lận”.

Ả Rập Xê Út trả tiền cho các học giả nước ngoài có năng suất cao để họ nhận là có liên kết với các trường đại học của nước này nhằm nâng cao vị thế trí tuệ của vương quốc. Đại học King Abdulaziz ở Jeddah – trả cho mỗi tác giả nước ngoài 76.000 USD mỗi năm – đã vượt qua cả Đại học Cambridge trong bảng xếp hạng Toán học của US News & World Report. Điều đáng nói là trường này thậm chí không cần có khoa Toán.

Càng nhiều tác giả, càng nhiều trích dẫn

Số lượng tác giả trên mỗi bài báo đã tăng lên nhanh chóng. Mỗi đồng tác giả sẽ tự trích dẫn bài báo đó, làm tăng vọt số lượt trích dẫn của bài, tăng JIF và mọi thứ liên quan. Ở đâu có nhiều đồng tác giả, ở đó chỉ số ảnh hưởng tăng cao. Các bài báo trong tạp chí Vật lý có thể có hàng trăm, đôi khi hàng nghìn tác giả, với danh sách tác giả còn dài hơn cả chính bài báo.

Vậy tất cả những tác giả này làm gì? Không nhiều lắm.
Tất nhiên, mỗi bài báo đều phải do ai đó viết – nhưng không nhất thiết phải là những người có tên trong danh sách tác giả. Đạo đức quản lý đã xâm nhập vào giới xuất bản học thuật, và các nhà quản lý cấp cao, bao gồm cả các phó hiệu trưởng, cảm thấy có quyền ghi tên mình vào các bài báo do những người cấp dưới vô danh viết. Trong ngành Y, các công ty truyền thông chuyên viết bài báo học thuật cho khách hàng và sắp xếp để chúng được đăng trên các tạp chí hàng đầu. Các học giả danh tiếng được trả tiền để đứng tên cho những bài báo này, đôi khi mà không cần đọc qua.

Vài năm trước, 16% các bài báo đăng trên tạp chí danh tiếng New England Journal of Medicine có “tác giả ma” (người viết chính nhưng không được ghi tên), và có tới 44% có “tác giả danh dự” (người được ghi tên nhưng không đóng góp gì). Tác giả khách mời, tác giả quà tặng, và tác giả danh dự (những người không viết gì cả) có ở khắp mọi nơi. Làm sao một số học giả có thể tuyên bố đã viết hàng trăm bài báo một năm? Một người ở Đại học Nottingham Trent gắn tên mình vào hai bài báo mỗi tuần, tích lũy được 50.000 trích dẫn chỉ trong năm năm. Một học giả Tây Ban Nha xuất bản với tốc độ một bài báo mỗi 37 giờ. Số lượng tác giả xuất bản hơn 60 bài mỗi năm đã tăng gần gấp bốn lần trong một thập kỷ.

Trong nỗ lực tuyệt vọng để duy trì một chút trật tự, một số tạp chí yêu cầu các tác giả phải xác định rõ đóng góp của mình cho bài báo. Cứ như thể một hệ thống chấp nhận cả tác giả hư cấu lại ngần ngại việc bịa đặt chức năng của họ vậy. Khi những người được liệt kê là tác giả của một bài báo không liên quan gì đến việc tạo ra nó và không biết ai đã viết nó, thì quyền tác giả chẳng còn mấy ý nghĩa. Các nhà nghiên cứu Wilhite và Fong đã dùng một từ rất ngoại giao để mô tả tình trạng này là “có thể thay thế cho nhau” (fungible). Các bài báo được sản xuất ra để được trích dẫn, và việc đọc chúng không cần phải vượt ra ngoài tiêu đề, tóm tắt và từ khóa.

Tiền trao cháo múc

Quyền tác giả đã bị hạ cấp từ một lời khẳng định đã viết bài báo, xuống thành một dấu hiệu cho thấy có liên quan đến bài báo, và cuối cùng chỉ là một đặc quyền công nhận quyền lực và ảnh hưởng của một cá nhân. Quyền tác giả cho phép họ hưởng lợi từ trích dẫn, và chính thông qua trích dẫn, chứ không phải qua tri thức học thuật, mà vị thế của tác giả được nâng cao. Học thuật thực sự không liên quan gì đến xếp hạng.

Một tác giả được trích dẫn trong nghiên cứu của Butler và Spoelstra (2014) đã nói:

“Từ góc độ công cụ, [bài báo đó] đã mang lại cho tôi chức vị giáo sư. Nhưng xét về mặt học thuật, nó thật kinh tởm. Vâng, nó thực sự, thực sự tồi tệ.”

Vai trò của xuất bản học thuật từng là phổ biến kiến thức từ nghiên cứu đến công chúng. Giờ đây, khách hàng chính là các nhà khoa học, những người trả tiền trực tiếp cho nhà xuất bản để có được các chỉ số hiệu suất mà họ cần. Trước đây, các tạp chí chỉ đăng vài chục bài báo mỗi năm, do lao động học thuật miễn phí viết, biên tập và bình duyệt. Nhưng một mô hình kinh doanh mới đã ra đời, mang lại lợi nhuận không liên quan gì đến chi phí sản xuất của nhà xuất bản. Việc thu phí xử lý bài báo của tác giả để được truy cập mở và có trích dẫn nhanh chóng khiến việc xuất bản hàng trăm, thậm chí hàng nghìn bài báo trong mỗi số tạp chí trở thành một cám dỗ không thể cưỡng lại đối với các nhà xuất bản.

Thế là, các “học giả” trả tiền để được xuất bản và tìm đến những bài báo có thể được trích dẫn ở hầu hết mọi nơi để ủng hộ cho hầu hết mọi thứ nhằm thu về lợi nhuận cao nhất. Với tư cách là tác giả, họ đành chấp nhận một sự tầm thường mà các thước đo hiệu suất sẽ công nhận là “thành tựu học thuật”.

Dịch từ LSE

--- Bài viết này có hữu ích không? ---

Nhấn sao để đánh giá!

Đánh giá trung bình 5 / 5. Số đánh giá: 6

Chưa có đánh giá.

Có thể bạn quan tâm